Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 6-2016 - page 85

TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2016
87
định kiểm tra toàn bộ phần tử trong tổng thể áp
dụng với các giao dịch không thường xuyên, hoặc
số dư các tài khoản được tạo từ số lượng ít các giao
dịch phát sinh trong kỳ); (2) Có rủi ro đáng kể mà
các phương pháp khác không cung cấp đầy đủ bằng
chứng kiểm toán thích hợp; (3) Tính chất lặp đi lặp
lại của việc tính toán hoặc quy trình khác được thực
hiện tự động, bởi một hệ thống thông tin giúp việc
kiểm tra 100% sẽ tiết kiệm chi phí hơn. Như vậy, ở
phương pháp này kiểm toán viên không gặp phải
rủi ro lấy mẫu trong kiểm toán, tức là rủi ro mà kết
luận của kiểm toán viên dựa trên việc kiểm tra mẫu
có thể khác so với kết luận đưa ra, nếu kiểm tra toàn
bộ tổng thể với cùng một thủ tục kiểm toán. Đồng
thời có thể thấy rằng, việc kiểm tra toàn bộ tổng thể
các phần tử cấu thành một nhóm giao dịch hoặc số
dư tài khoản (hoặc một nhóm trong tổng thể đó)
là đưa ra được kết luận thích hợp nhất. Ngược lại,
phương pháp này không áp dụng với thử nghiệm
kiểm soát nhằm cung cấp cho kiểm toán viên các
bằng chứng về tính hiệu quả trong thiết kế và vận
hành của hệ thống kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó,
việc áp dụng với toàn bộ nhóm giao dịch và số dư
tài khoản cấu thành nên báo cáo tài chính, là không
khả thi đối với kiểm toán viên.
Phương pháp thứ hai, lựa chọn các phần tử cụ thể:
Các phần tử cụ thể được chọn có thể bao gồm: (1)
Các phần tử có giá trị lớn hoặc các phần tử đặc biệt
(Kiểm toán viên có thể quyết định lựa chọn một
số phần tử cụ thể trong một tổng thể do các phần
tử này có giá trị lớn hoặc có một số tính chất khác
T
rong hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính,
kiểm toán viên không thể loại trừ hoàn toàn
rủi ro kiểm toán và không thể đạt được sự
đảm bảo về việc báo cáo tài chính hoàn toàn không có
sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn. Cuộc
kiểm toán luôn có những hạn chế vốn có làm cho hầu
hết các bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên dựa
vào để đưa ra kết luận và hình thành ý kiến kiểm
toán đều mang tính thuyết phục nhiều hơn là tính
khẳng định chắc chắn. Hoạt động kiểm toán không
phải là hoạt động thực hiện lại công việc của kế toán,
mà bản chất là quá trình thực hiện các thủ tục kiểm
toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán
thích hợp và dựa vào các bằng chứng này để hình
thành ý kiến về báo cáo tài chính. Khi thiết kế các thử
nghiệm kiểm soát và kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên
phải xác định phương pháp hiệu quả, để lựa chọn
các phần tử kiểm tra nhằm đạt được mục đích của
thủ tục kiểm toán.
Để có thể chọn phần tử kiểm tra phục vụ cho việc
thu thập bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên có thể
lựa chọn sử dụng 3 phương pháp sau: Chọn tất cả các
phần tử, lựa chọn các phần tử cụ thể và lấy mẫu kiểm
toán. Trong 3 phương pháp trên, phương pháp nào
cũng đều có ưu nhược điểm riêng, cụ thể:
Phương pháp thứ nhất, chọn tất cả các phần tử
(kiểm tra 100%):
Thường không áp dụng đối với thử
nghiệm kiểm soát nhưng thường được áp dụng đối
với kiểm tra chi tiết. Kiểm tra 100% có thể thích hợp
khi: (1) Tổng thể được cấu thành từ một số ít các
phần tử có giá trị lớn (Kiểm toán viên thường quyết
PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌNPHẦNTỬKIỂMTRA
TRONGKIỂMTOÁNBÁOCÁOTÀI CHÍNH
ThS. TRẦN THÙY LINH
- Đại học Công nghiệp Hà Nội
Khi thiết kế các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định phương pháp thích hợp để lựa
chọn các phần tử kiểm tra. Các phương pháp có thể được lựa chọn là: chọn toàn bộ (kiểm tra
100%), lựa chọn các phần tử cụ thể, lấy mẫu kiểm toán. Trong từng trường hợp cụ thể, kiểm toán
viên có thể lựa chọn một trong ba phương pháp hoặc kết hợp cả ba phương pháp trên. Việc quyết
định sử dụng phương pháp nào là dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro kiểm toán và hiệu quả của cuộc
kiểm toán. Kiểm toán viên cần tin tưởng vào sự hữu hiệu của phương pháp được sử dụng trong
việc thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm thỏa mãn mục tiêu của thử nghiệm.
Từ khóa: Kiểm toán, kiểm toán viên, phần tử, rủi ro kiểm toán.
1...,75,76,77,78,79,80,81,82,83,84 86,87,88,89,90,91,92,93,94,95,...106
Powered by FlippingBook