TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2016
89
Thươngmại nội ngành củamột số nước trên thế giới
Thương mại nội ngành giữa Thái Lan và APEC
Giai đoạn 1960 - 1970, Chính phủ Thái Lan đã cải
tổ nền kinh tế từ sản xuất phụ thuộc nông nghiệp
sang sản xuất hàng hóa. Điều này xuất phát từ các
kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia. Sự chuyển
đổi này được hỗ trợ bởi 3 chính sách lớn:
Thứ nhất,
chính phủ cam kết cung cấp cơ sở hạ tầng đầy đủ
để đáp ứng nhu cầu của các ngành Công nghiệp;
Thứ hai,
chính phủ đã thực hiện một loạt các biện
pháp nhằm khuyến khích ngành Công nghiệp.
Thứ
ba,
Thái Lan đã tham gia Hiệp định thương mại
và hội nhập khu vực như ASEAN, APEC và đã có
những hoạt động về cải cách thuế quan như: giảm
thuế nhập khẩu và thuế suất. Xu hướng này rõ ràng
là một động thái chuyển từ các sản phẩm dựa vào
tài nguyên và lao động, sang sản xuất các sản phẩm
khác biệt. Một thuộc tính của sản xuất hàng xuất
khẩu này là, kết nối chặt chẽ tiềm năng của thương
mại nội ngành để tạo sự khác biệt, hoặc theo quy mô
kinh tế. Tất nhiên, sự phát triển kinh tế thế giới và
các chính sách kinh tế vĩ mô trong nước đã thúc đẩy
thương mại nội ngành phát triển.
Thương mại nội ngành của các nước trong khu vực
châu Á
Min (1992) đã xem xét các yếu tố quyết định
thương mại song phương trong sản xuất giữa các
nước đang phát triển ở châu Á (Trung Quốc, Hồng
Kông, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines,
Singapore, Đài Loan và Thái Lan) và các nước phát
triển (Anh và Hoa Kỳ). Ông kết luận rằng, các yếu
tố chính ảnh hưởng đến phát triển thương mại nội
ngành là đặc điểm quốc gia (như thu nhập bình
quân đầu người và độ mở của nền kinh tế). Trong
một nghiên cứu liên quan, Thorpe (1993) tập trung
vào việc xem xét các yếu tố quyết định đến phát
triển thương mại nội ngành của 3 quốc gia ASEAN,
cụ thể là Malaysia, Philippines, Singapore và các
đối tác trong giai đoạn 1970-1989. Nghiên cứu chỉ
ra rằng, Singapore đóng vai trò quan trọng trong
thương mại nội ngành giữa các nước thành viên,
một phần do vị trí của nước này là cảng nhập cảnh
và là quốc gia phát triển nhất trong nhóm. Mức độ
thương mại song phương giữa các quốc gia đã tăng
lên không chỉ giữa các nước trong khu vực với nhau,
mà còn với các nước bên ngoài khu vực.
Thương mại nội ngành giữa các nước EU
Gabrisch và Segnana (2003), Pieri and Venturini
(1997) đã nghiên cứu thương mại giữa các nước
Liên minh châu Âu (EU) với nhau và EU với các
nước khác. Họ đã phát hiện ra rằng, hơn 50%
thương mại giữa các nước EU với nhau là thương
mại nội ngành. Hơn nữa, họ đã cho thấy rằng, tự do
hóa thương mại làm cho thị phần thương mại nội
ngành tăng trong thương mại với các nước ngoài
khối trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến năm
2000. Gabrisch và Segnana (2003) cũng đã tìm ra
rằng, thương mại nội ngành giữa các nước EU cũng
như là giữa EU với các nước ngoài khối bao gồm
một phần lớn là thương mại nội ngành dọc.
Thương mại nội ngành giữa các nước chuyển đổi
Aturupane (1999) đã phân tích thương mại nội
ngành dọc của của các nước Trung và Đông Âu với
EU trong suốt thời kỳ từ 1990 đến 1995. Kandogan
PHÁT TRIỂNTHƯƠNGMẠI NỘI NGÀNH
HÀNGNÔNGNGHIỆP GIỮAVIỆT NAMVỚI APEC
ThS. VÕ THY TRANG
- Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
Sự tăng trưởng của thương mại quốc tế hiện nay phải kể đến sự đóng góp to lớn của thương mại
nội ngành. Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế trong ngành hàng nông nghiệp. Phát triển
thương mại nội ngành hàng nông nghiệp giữa Việt Nam với Khu vực kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) sẽ tạo điều kiện thúc đẩy thương mại nội ngành nói riêng và phát triển kinh tế Việt
Nam nói chung. Nghiên cứu về thương mại nội ngành của một số nước, bài viết đưa ra một số kinh
nghiệm giúp Việt Nam phát triển hiệu quả thương mại nội ngành hàng nông nghiệp với APEC.
•
Từ khóa: APEC, thương mại nội ngành, nông nghiệp.