TCTC so 5 ky 1 - page 71

73
ĐỊNHHƯỚNGVÀGIẢI PHÁPPHÁTTRIỂNBỀNVỮNG
NGÀNH CÔNGNGHIỆPVIỆT NAM
ThS. LƯU HUỲNH
Giai đoạn 2015-2020 là giai đoạn “nước rút” để Việt Nam định vị mình trong bản đồ công
nghiệp khu vực và toàn cầu. Mục tiêu này đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa trong tái
cơ cấu ngành Công nghiệp theo hướng phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, các cụm
ngành công nghiệp và tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi giá trị toàn cầu.
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
Những thay đổi trong cơ cấu ngành Công nghiệp
Cùng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách
lớn trong tái cơ cấu kinh tế và thực hiện hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường, phát triển nguồn nhân lực
và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, thời gian qua
ngành Công nghiệp đã có những chuyển biến tích
cực. Giá trị gia tăng ngành Công nghiệp năm 2011
tăng 6,7%; năm 2012 tăng 5,7%; năm 2013 tăng 5,4%
và năm 2014 tăng 7,14%; bình quân 4 năm tăng 6,8%.
Tỷ trọng công nghiệp trong GDP giai đoạn 2010-2015
cũng đang có xu hướng tăng dần, từ 38,2% năm 2010
lên 38,62% năm 2014 và dự kiến đạt 38,58% vào cuối
năm 2015. Theo dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng
trưởng cao hơn trong năm 2015 với tốc độ tăng trưởng
ngành Công nghiệp là 7,5%. Tuy nhiên, những khó
khăn và thách thức vẫn còn bởi con số dự kiến đạt
được vẫn thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch đề ra.
Cơ cấu ngành Công nghiệp mặc dù đã có sự dịch
chuyển đúng định hướng với tỷ trọng ngành công
nghiệp chế biến tăng dần (tăng từ 78,7% năm 2010
lên khoảng 86,6% năm 2015) và tỷ trọng ngành khai
khoáng giảm dần (giảm từ 15,8% năm 2000 xuống
còn 0,8% năm 2015). Vậy nhưng, về thực chất sự dịch
chuyển này chưa đảm bảo bền vững, do sự phát triển
của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ yếu dựa
gia công và thâm dụng nhiều lao động; năng lực cạnh
tranh ở các sản phẩm chế biến, chế tạo chủ yếu dựa
trên giá nhân công rẻ hoặc ưu đãi về thuế, tiền sử
dụng đất…
Đánh giá của Tổ chức phát triển Công nghiệp Liên
Hợp Quốc (UNIDO), ở Việt Nam, tỷ trọng ngành công
nghiệp dựa vào tài nguyên có xu hướng giảm từ 42,7%
năm 2010 xuống còn 38,5% năm 2014; ngành công
nghiệp sử dụng công nghệ thấp (dệt may, da giày,
đồ chơi, sản phẩm nhựa, đồ gỗ, thủy tinh…) giảm từ
41,2% năm 2010 xuống 35,2% năm 2014; ngành công
nghệ trung bình và cao tăng lên khoảng 26,3% năm
2014.
Về chỉ số Năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP),
năm 2013, Việt Nam được UNIDO lựa chọn và nâng
hạng lên thứ 54/118 quốc gia. Như vậy, Việt Nam đã
tiến lên được 18 bậc trong vòng 8 năm (năm 2005, xếp
thứ hạng 72). Dấu hiệu này cho thấy, Việt Nam đang
trở thành một điểm sáng trong bức tranh công nghiệp
chế tạo toàn cầu. Tuy nhiên, so với các nước trong khu
vực như Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia,
Indonesia, Philippines thì Việt Nam vẫn có chỉ số CIP
và thứ hạng thấp hơn.
Tóm lại, mặc dù đã có những dấu hiệu phục hồi và
có nhiều chuyển biến tích cực nhưng phát triển ngành
Công nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, trở ngại sau:
Thứ nhất,
giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp
còn thấp hơn so với mục tiêu đặt ra.
Thứ hai,
sản xuất ngành Công nghiệp vẫn trong
tình trạng phát triển theo chiều rộng, chủ yếu gia công,
lắp ráp; đổi mới công nghệ chưa đáp ứng với yêu cầu
phát triển; nguyên liệu đầu vào cho sản xuất vẫn phục
thuộc nhiều vào nhập khẩu, khiến giá thành sản phẩm
hàng hóa của Việt Nam cao, khó cạnh tranh được với
sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Thứ ba,
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp còn chậm,
một số sản phẩm công nghiệp tuy đã được cải thiện và
có chỗ đứng trên thị trường quốc tế song nhìn chung
còn thấp…
1...,61,62,63,64,65,66,67,68,69,70 72,73,74,75,76,77,78,79,80,81,...86
Powered by FlippingBook